♥๑۩۞۩๑°ღ A6 Family ღ°๑۩۞۩๑♥
Chào mừng các bạn ghé thăm ♥️๑۩۞۩๑°ღ A6 Family ღ°๑۩۞۩๑♥️ !
Chúng Tôi Tập Thể A6 (2008-2011) Trường THPT Phù Cát 1

Rất mong các bạn đăng ký làm thành viên để cùng nhau chia sẻ.

Chúc các bạn có những giây phút thư giãn vui vẻ
♥️ Welcome to A6 Forum ♥️
Join us, please.
Have a nice day.



Hãy Đăng Ký Để Có Tài Khoản Đăng Nhập:
♥๑۩۞۩๑°ღ A6 Family ღ°๑۩۞۩๑♥
Chào mừng các bạn ghé thăm ♥️๑۩۞۩๑°ღ A6 Family ღ°๑۩۞۩๑♥️ !
Chúng Tôi Tập Thể A6 (2008-2011) Trường THPT Phù Cát 1

Rất mong các bạn đăng ký làm thành viên để cùng nhau chia sẻ.

Chúc các bạn có những giây phút thư giãn vui vẻ
♥️ Welcome to A6 Forum ♥️
Join us, please.
Have a nice day.



Hãy Đăng Ký Để Có Tài Khoản Đăng Nhập:

♥๑۩۞۩๑°ღ A6 Family ღ°๑۩۞۩๑♥

Phù Cát-Bình Định
 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
:: ♥๑۩۞۩๑°ღ A6 Family ღ°๑۩۞۩๑♥ ::
  • Music


FMvi-Group Bạn muốn yêu cầu ca khúc ? Click Click


Share|

Chiến tranh vùng vịnh

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Tác giảThông điệp
namtuocbongdem
Tước hiệu๑۩۞۩๑IvIaster Of Dragon๑۩۞۩๑


๑۩۞۩๑IvIaster Of Dragon๑۩۞۩๑


Giới Tính : Nam
Chòm Sao : Aquarius
Con Giáp : Monkey
Tổng Số Bài Gửi : 19
Được Cảm Ơn : 11
Ngày Gia Nhập : 09/11/2010
Tuổi : 31
Đến Từ : Nghĩa địa
Sở Thích : slashing wind
Châm Ngôn Sống : Sống là không chờ đợi
Thành Tích:namtuocbongdem Hiện đang:
Level: ๑۩۞۩๑IvIaster Of Dragon๑۩۞۩๑
Danh vọng:19%/%
Tài năng:31%/100%


Chiến tranh vùng vịnh  _
Bài gửiTiêu đề: Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh vùng vịnh  I_icon_minitime18/11/2010, 7:18 pm

Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (cũng gọi là Chiến tranh vịnh Péc-xích hay Chiến dịch Bão táp Sa mạc) là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh gần 30 quốc gia[1] do Hoa Kỳ lãnh đạo và được Liên Hiệp Quốc phê chuẩn để giải phóng Kuwait.

Sự kiện dẫn tới chiến tranh là việc Iraq xâm chiếm Kuwait ngày 2 tháng 8 năm 1990, sau khi Iraq cho rằng (nhưng không chứng minh được) Kuwait đã "khoan nghiêng" giếng dầu của họ vào biên giới Iraq. Hậu quả của cuộc xâm chiếm là Iraq ngay lập tức bị Liên Hiệp Quốc áp đặt trừng phạt kinh tế. Những hành động quân sự bắt đầu từ tháng 1 năm 1991, dẫn tới một thắng lợi hoàn toàn của các lực lượng đồng minh, buộc quân đội Iraq phải rút khỏi Kuwait với tổn thất nhân mạng ở mức tối thiểu cho lực lượng đồng minh. Những trận đánh chính là những trận đánh trên không và trên bộ bên trong Iraq, Kuwait và những vùng giáp biên giới Ả Rập Saudi. Cuộc chiến không mở rộng ra ngoài vùng biên giới Iraq/Kuwait/Ả Rập Saudi, dù Iraq đã bắn tên lửa vào các thành phố của Israel.

Cuộc chiến vùng Vịnh này được coi là dấu chấm hết cho thời kỳ chung sống hòa bình của thế giới
"Chiến tranh vùng Vịnh" và "Chiến tranh vịnh Péc-xích" là những thuật ngữ thường được dùng nhất để chỉ cuộc xung đột này ở các nước phương Tây. Những cái tên đó đã được đa số các nhà sử học và nhà báo sử dụng tại Hoa Kỳ. Từ "Chiến dịch Iraq tự do" ngày 22 tháng 3 năm 2003 và tiếp theo là việc Hoa Kỳ chiếm đóng Iraq, cuộc xung đột năm 1991 hiện nay thường được gọi là "Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất". Tại Hoa Kỳ cuộc xung đột thường được gọi là Chiến dịch "Lá chắn sa mạc" (Desert Shield) và "Bão táp sa mạc" (Desert Storm) và ở Anh là Chiến dịch Granby. Tại Kuwait và đa số các nước Ả Rập cuộc xung đột thường được gọi là Harb Tahrir al-Kuwait hay "Chiến tranh giải phóng Kuwait". Tại Iraq, cuộc chiến thường được gọi là Um M'aārak - "Cuộc chiến của mọi cuộc chiến".
Trước Thế chiến thứ nhất, theo Hiệp định Anh-Ottoman năm 1913, Kuwait bị coi là một "caza tự trị" bên trong Iraq của Đế chế Ottoman. Sau cuộc chiến, Kuwait thuộc quyền cai trị của Anh và nước này coi Kuwait và Iraq là hai quốc gia riêng biệt, được gọi là Các Tiểu Vương quốc Ả Rập. Tuy nhiên, những quan chức Iraq không chấp nhận tính hợp pháp của nền độc lập của Kuwait hay chính quyền Emir tại Kuwait. Iraq không bao giờ chấp nhận chủ quyền của Kuwait và vào thập kỷ 1960 Anh đã phải triển khai quân đội để bảo vệ Kuwait khỏi ý định sáp nhập của Iraq.
Chiến tranh vùng vịnh  150px-Saddam_Hussein_at_trial%2C_July_2004

Cựu Tổng thống Iraq Saddam HusseinTrong Chiến tranh Iran-Iraq ở thập niên 1980, Kuwait là đồng minh của Iraq, phần lớn là để được Iraq bảo vệ khỏi những người Shi'ite ở Iran. Sau cuộc chiến, Iraq nợ các nước Ả Rập nhiều khoản tiền lớn, trong đó có 14 tỷ dollar nợ Kuwait. Iraq hy vọng sẽ trả được những khoản nợ đó khi làm tăng giá dầu mỏ thông qua việc cắt giảm sản lượng khai thác của OPEC, nhưng thay vào đó, Kuwait lại tăng lượng khai thác của mình khiến giá dầu giảm sút, trong một nỗ lực nhằm kích thích có được một giải pháp giải quyết tốt hơn cho việc tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước. Ngoài ra, Iraq bắt đầu buộc tội Kuwait đã khoan nghiêng vào các giếng dầu của họ ở vùng biên giới và cho rằng vì Iraq là nước đệm chống lại Iran bảo vệ cho toàn bộ các nước Ả Rập và vì thế Kuwait và Ả Rập Saudi phải đàm phán hay huỷ bỏ những khoản nợ cho chiến tranh của Iraq. Hai lý do ban đầu Tổng thống Iraq Saddam Hussein đưa ra để biện hộ cho cuộc chiến là để xác nhận việc Kuwait từng là một phần của lãnh thổ Iraq và đã bị chủ nghĩa thực dân tách ra một cách không công bằng, và Iraq sáp nhập Kuwait để bù "phí tổn kinh tế" khi họ phải bảo vệ Kuwait trước Iran cũng như việc Kuwait đã khoan nghiêng vào các giếng dầu của họ.

Cuộc chiến với Iran đã khiến hầu hết tất cả các cơ sở cảng biển của Iraq ở Vịnh Péc xích (hay Vịnh Ba Tư) bị huỷ hoại, khiến cho con đường giao thương chính của nước này với bên ngoài bị cản trở. Nhiều người Iraq, cho rằng cuộc chiến với Iran sẽ lại tái diễn trong tương lai, cảm thấy rằng an ninh của Iraq chỉ được đảm bảo khi họ kiểm soát thêm được vùng vịnh Péc xích, gồm cả những cảng biển quan trọng. Vì thế Kuwait chính là một mục tiêu.

Về ý thức hệ, cuộc xâm chiếm Kuwait được biện hộ bởi những lời kêu gọi của chủ nghĩa quốc gia Ả Rập. Kuwait từng được coi là một phần lãnh thổ tự nhiên của Iraq và đã bị chủ nghĩa thực dân Anh tách ra. Việc sáp nhập Kuwait được miêu tả như là một bước trên con đường tiến tới một Liên hiệp Ả Rập rộng lớn hơn. Các lý do khác cũng được đưa ra. Hussein coi đó là một cách để khôi phục Đế chế Babylon theo cách khoa trương của những người Ả Rập theo chủ nghĩa quốc gia. Cuộc xâm chiếm cũng có quan hệ chặt chẽ với các sự kiện ở vùng Trung Đông. Phong trào Intifada lần thứ nhất của người Palestine đang ở cao trào, và hầu hết các nước Ả Rập, gồm cả Kuwait, Ả Rập Saudi và Ai Cập, đang phải phụ thuộc vào các nước đồng minh phương Tây. Vì thế Saddam xuất hiện với vai trò là một chính khách Ả Rập đứng lên chống lại Israel và Hoa Kỳ.
Ngày 2 - 8 - 1990: Quân đội Iraq tiến vào Kuwait. Hội đồng bảo an LHQ lên án cuộc xâm lược của Iraq và đòi rút ngay lập tức và không điều kiện các lực lượng của Iraq ra khỏi Kuwaitg
ngày 6 - 8 - 1990: Hội đồng bảo an LHQ kêu gọi các nước thành viên LHQ ngừng buôn bán với Iraq để buộc Iraq phải rút quân khỏi Kuwait.
Ngày 8 - 8 - 1990: Iraq tuyên bố sát nhập Kuwait vào Iraq. Tổng thống Mỹ, Bush nói các lực lượng chiến đấu đang được triển khai như mội bộ phận của các lực lượng đa quốc gia để bảo vệ Ả Rập Saudi.
Ngày 12 - 8 - 1990: Tổng thống Iraq Saddam Hussein công bố đề nghị hoà bình gắn việc rút quân đội Iraq với việc rút các lực lượng Ixraen ra khỏi bờ Tây sông Gioóc-đan và giải Ga - da và vấn đề Palesxtin.
Ngày 18 - 8 - 1990: Iraq tuyên bố bắt giữ tất cả người nước ngoài. Hội đồng bảo an LHQ Kêu gọi trả tự do không điều kiện cho những người nước ngoài.
Ngày 9 - 9 - 1990: Tổng thống Mỹ Bush và tổng thống Liên Xô Goóc-Ba-chốp kêu gọi rút hoàn toàn và không điều kiện các lực lượng của Iraq ra khỏi Kuwait.
Ngày 8 - 11 - 1990: Mỹ quyết định gửi thêm 200000 quân sang Ả Rập Saudi.
Ngày 29 - 11 - 1990: Hội đồng bảo an LHQ cho phép sử dụng tất cả những biện pháp can thiệp. Nếu Iraq không chịu rút quân ra khỏi Kuwait vào ngày 15 - 1 - 1991.
Ngày 6 - 12 1990: Iraq tuyên bố trả lại tự do cho các con tin người nước ngoài.
Ngày 9 - 1 - 1991: Ngoại trưởng Mỹ J Baker và ngoại trưởng Iraq A-dít gặp nhau tại Giơ ne vơ, nhưng không phá vỡ được bế tắc.
Ngày 13 - 1 - 1991: Tổng thư ký LHQ Pê-rét Đê Cu-ê-gia gặp Husscin ở Bat-đa, nhưng không đạt được tiến bộ cho một giải pháp hoà bình.
Ngày 15 - 1 - 1991: Nghị quyết của hội đồng bảo an LHQ đề ra thời hạn cuối cùng cho việc Iraq rút khỏi Kuwait.
Ngày 17 - 1 - 1991: các lực lượng đa quốc gia bắt đầu mở các cuộc tiến công chống quân đội Iraq chiếm đóng Kuwait.
Ngày 18 - 1 - 1991: Iraq bắt đầu các cuộc tiến công bằng tên lửa Scud vào Ixraen và Ả Rập Saudi.
Ngày 25 - 1 - 1991: Hoa Kỳ nói Iraq đang xả dầu thô vào vùng Vịnh.
Ngày 30 - 1 - 1991: Lực lượng Iraq và đa quốc gia tiến hành cuộc chiến đấu trên bộ ở thành phố Kháp-gi biên giới Ả Rập Saudi
Ngày 13 - 2 - 1991: Nhiều dân thường chết Trong cuộc oanh kích của không quân Hoa Kỳ vào một hầm trú ẩn ở BaSra.
Ngày 15 - 2 - 1991: Iraq thông báo sẵn sàng rút khỏi Kuwait , nhưng lại gắn với việc đòi Ixraencũng phải rút khỏi những vùng lãnh thổ đã chiếm đóng của các nước Ả Rập.
Ngày 21 - 1 - 1991: Tổng thống Saddam Hussein kêu gọi các lực lượng vũ trang và quân đội Iraq chiến đấu tới cùng chống các lực lượng liên minh.
Ngày 22 - 1 - 1991: Liên xô và Iraq thoả thuận về đề nghị hoà bình do Liên xô đưa ra, nhưng Hoa Kỳ bác bỏ đề nghị đó và đòi Iraq phải rút quân vào trưa 23 - 2 - 1991.
Ngày 24 - 2 - 1991: Liên minh do Hoa Kỳ đứng đầu mở cuộc tiến công trên bộ.
Ngày 25 - 2 - 1991: Iraq bắn tên lửa vào các doanh trại quân đội hoa kỳ làm chết 28 lính và bị thương nhiều binh sĩ khác.
Ngày 26 - 2 - 1991: Iraq tuyên bố quân đội sẽ rút khỏi Kuwait vào cuối ngày 26 - 2 - 1991.
Ngày 27 - 2 - 1991: Hoa Kỳ tuyên bố Kuwait được giải phóng sau gần 7 tháng bị Iraq chiếm đóng và tuyên bố ngừng các cuộc tiến công của đồng minh, bắt đầu có hiệu lực từ 5 giờ GMT ngày 28 - 2 - 1991. Iraq chấp nhận toàn bộ 12 nghị quyết của hội đồng bảo an LHQ.
Ngày 28 - 2 - 1991: Chiến tranh chấm dứt sau khi tổng thống Saddam Hussein ra lệnh ngừng chiến đấu.
Rạng sáng ngày 2 tháng 8 năm 1990, quân đội Iraq vượt biên giới Kuwait với bộ binh và xe bọc thép, chiếm các vị trí chiến lược trên toàn bộ Kuwait, gồm cả cung điện Emir. Quân đội Kuwait nhanh chóng bị áp đảo, dù họ cũng kìm chân địch đủ thời gian cho Không quân Kuwait bay sang trốn ở Ả Rập Saudi. Trận đánh dữ dội nhất diễn ra tại Cung Emir, nơi các lực lượng bảo vệ hoàng gia chiến đấu bọc hậu cho gia đình hoàng gia tẩu thoát. Anh (Em) của Emir, là người chỉ huy đội quân đó, nằm trong số người thiệt mạng. Quân đội Iraq cướp bóc các kho thực phẩm và thuốc men dự trữ, giam giữ hàng nghìn dân thường và chiếm quyền kiểm soát đài phát thanh. Đã có nhiều báo cáo về các vụ sát hại, những hành động tàn bạo và những vụ hãm hiếp của quân đội Iraq với thường dân Kuwait. Tuy nhiên, Iraq đã giam giữ hàng nghìn người phương Tây làm con tin và sau đó tìm cách đem họ ra làm vật trao đổi. Sau một khi lập nên chính phủ bù nhìn do Alaa Hussein Ali lãnh đạo một thời gian ngắn, Iraq sáp nhập Kuwait. Sau đó Hussein lập ra một thống đốc tỉnh mới này của Iraq, gọi đó là "sự giải phóng" khỏi chế độ Emir của Kuwait, đây chỉ là một biện pháp tuyên truyền trong chiến tranh.
Chỉ vài giờ sau cuộc tấn công đầu tiên, các phái đoàn Kuwait và Hoa Kỳ đã yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhóm họp, thông qua Nghị quyết 660, lên án cuộc xâm lược và yêu cầu Iraq rút quân. Ngày 3 tháng 8, Liên đoàn Ả Rập thông qua nghị quyết của riêng mình lên án cuộc xâm lược và đòi Iraq rút quân. Nghị quyết của Liên đoàn Ả Rập cũng kêu gọi tìm ra một giải pháp cho cuộc xung đột từ bên trong Liên đoàn Ả Rập, và cảnh báo chống lại sự can thiệp từ bên ngoài. Ngày 6 tháng 8, Hội đồng Bảo an thông qua Nghị quyết 661, áp đặt trừng phạt kinh tế lên Iraq.

Quyết định của phương Tây nhằm đẩy lùi cuộc xâm lược của Iraq thực chất có mục đích chính là để ngăn Iraq xâm lược Ả Rập Saudi, một nước có tầm quan trọng hơn rất nhiều so với Kuwait, như việc Iraq đã làm với Kuwait. Thắng lợi nhanh chóng của quân đội Iraq trước Kuwait khiến quân đội Iraq đã tiến đến rất gần các giếng dầu ở Hama, là nguồn tài nguyên giá trị nhất của Ả Rập Saudi. Việc Iraq kiểm soát được các giếng dầu đó cũng như những nguồn tài nguyên dầu lửa của Iraq và Kuwait sẽ làm cho họ nắm được một phần quan trọng tài nguyên dầu lửa thế giới, chỉ đứng sau chính Ả Rập Saudi. Đặc biệt, Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản coi một sự độc quyền tiềm tàng như vậy là rất nguy hiểm. Về mặt địa lý, Ả Rập Saudi là một nước lớn với các khu vực dân cư nằm phân tán và sẽ rất khó khăn để động viên binh lính nhằm chống lại các đội quân Iraq đang được triển khai ở phía nam Kuwait. Rất có khả năng là Iraq sẽ chiếm quyền kiểm soát các giếng dầu ở phía đông nhưng lại khó đoán được khi nào họ sẽ tấn công vào Riyadh, thủ đô của Ả Rập Saudi. Các sư đoàn thiết giáp Iraq cũng sẽ phải đối mặt với những khó khăn tương tự như khó khăn mà các lực lượng Ả Rập Saudi được triển khai tới bảo vệ các giếng dầu gặp phải, vì họ cùng phải vượt qua một sa mạc rộng lớn với điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Việc này, nếu đã xảy ra, sẽ phải xảy ra dưới bom của không lực Saudi, phần hiện đại hóa nhất của quân đội Saudi.

Iraq có một số bất mãn với Ả Rập Saudi. Mối lo về những khoản nợ nảy sinh từ thời Chiến tranh Iran-Iraq là rất lớn vì Iraq nợ Ả Rập Saudi tới khoảng 26 tỷ dollar. Biên giới sa mạc dài giữa hai nước cũng chưa được phân chia rõ ràng. Ngay sau khi có được chiến thắng ở Kuwait, Saddam bắt đầu dùng những lời phát biểu để công kích vương triều Ả Rập Saudi. Ông cho rằng vương triều do Mỹ hậu thuẫn đó là kẻ trông coi bất hợp pháp của những thành phố linh thiêng như Mecca và Medina. Saddam gộp cả ngôn ngữ của những nhóm Hồi giáo đang chiến đấu ở Afghanistan thời đó với kiểu phát biểu khoa trương mà Iran từ lâu đã sử dụng để tấn công Ả Rập Saudi. Việc đưa thêm dòng chữ Allahu Akbar (Thánh Ala vĩ đại) vào lá cờ Iraq và những hình ảnh Saddam đang cầu nguyện ở Kuwait được coi là một phần của kế hoạch lôi kéo sự ủng hộ từ Nhóm huynh đệ Hồi giáo và chia rẽ nhóm Hồi giáo Mujahideen với Ả Rập Saudi. Khi quân đội phương tây bắt đầu kéo đến nước này, những cuộc tấn công tuyên truyền đó còn leo thang lên mức cao hơn nữa.
Chiến tranh vùng vịnh  250px-USS_Wisconsin_%28BB-64%29_preps

Thiết giáp hạm USS Wisconsin, một trong nhiều chiến hạm được triển khai trong chiến dịch Lá chắn sa mạcTổng thống George H. W. Bush nhanh chóng thông báo rằng Hoa Kỳ sẽ tung ra một chiến dịch "bảo vệ toàn diện" nhằm ngăn chặn Iraq tấn công Ả Rập Saudi – "Chiến dịch Lá chắn sa mạc" – và quân đội Hoa Kỳ được chuyển tới Ả Rập Saudi ngày 7 tháng 8. Ngày 8 tháng 8, Iraq tuyên bố một số phần lãnh thổ Kuwait sẽ bị sáp nhập vào quận Basra và phần còn lại trở thành tỉnh thứ 19 của Iraq.

Hải quân Hoa Kỳ huy động hai nhóm tàu chiến, USS Dwight D. Eisenhower và USS Independence tới khu vực, và họ đã ở tình trạng sẵn sàng vào ngày 8 tháng 8. Cũng trong ngày hôm đó, 48 chiếc F-15 thuộc Không lực Hoa Kỳ từ 1st Fighter Wing tại Căn cứ không quân Langley, Virginia, đã hạ cánh xuống Ả Rập Saudi và ngay lập tức bắt đầu tiến hành tuần tra trên những vùng không phận biên giới Ả Rập Saudi và Iraq nhằm ngăn chặn đà tiến của quân đội Iraq. Hoa Kỳ cũng gửi những thiết giáp hạm USS Missouri và USS Wisconsin vào trong vùng, sau này chúng sẽ là những tàu chiến cuối cùng tham gia tích cực vào cuộc chiến. Việc huy động quân sự tiếp tục diễn ra, cuối cùng đã lên tới 500.000 quân. Những nhà phân tích quân sự nhất trí rằng tới tháng 10, quân đội Mỹ trong vùng chưa đủ sức để ngăn chặn cuộc tấn công (nếu có) của Iraq vào Ả Rập Saudi.

Cùng lúc ấy hàng loạt những nghị quyết của Hội đồng bảo an và Liên đoàn Ả Rập được đưa ra về cuộc xung đột. Một trong những nghị quyết quan trọng nhất là Nghị quyết 678 của Liên Hiệp Quốc, thông qua ngày 29 tháng 11, trao cho Iraq hạn chót để rút quân là ngày 15 tháng 1 năm 1991, và cho phép sử dụng "mọi biện pháp cần thiết để duy trì và thực hiện Nghị quyết 660", một công thức ngoại giao có nghĩa là cho phép sử dụng vũ lực.

Hoa Kỳ, đặc biệt là Ngoại trưởng James Baker, tập hợp các lực lượng đồng minh chống lại Iraq, gồm lực lượng từ 34 nước: Afghanistan, Argentina, Australia, Bahrain, Bangladesh, Canada, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Ai Cập, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Honduras, Ý, Kuwait, Maroc, Hà Lan, New Zealand, Niger, Na Uy, Oman, Pakistan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Qatar, Ả Rập Saudi, Sénégal, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Anh và chính Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ chiếm 74% trong số 660.000 lính trước chiến tranh. Nhiều lực lượng đồng minh bất đắc dĩ phải tham gia; một số cảm thấy rằng cuộc chiến là công việc nội bộ của Ả Rập, hay lo ngại sự tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở Kuwait. Cuối cùng, nhiều nước đã bị thuyết phục khi chứng khiến sự hiếu chiến của Iraq đối với các nước Ả Rập khác, và khi được hứa hẹn viện trợ kinh tế cũng như giảm nợ.
H. Norman Schwarzkopf, Jr. và Tổng thống George H. W. Bush thăm quân đội Hoa Kỳ tại Ả Rập Saudi trong ngày lễ Tạ ơn, 1990Hoa Kỳ đưa ra nhiều lí do biện minh cho việc dính líu vào cuộc xung đột. Lý lẽ đầu tiên là tầm quan trọng của mối quan hệ liên minh lâu dài với Ả Rập Saudi. Tuy nhiên, một số người Mỹ không bằng lòng với cách giải thích đó và khẩu hiệu "Không đổi máu lấy dầu" đã trở thành tiếng kêu thường thấy nhất trong các cuộc biểu tình phản đối từ bên trong nước Mỹ, dù chúng không bao giờ đạt tới tầm cao như phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam. Lý do tiếp sau cho cuộc chiến là lịch sử vi phạm nhân quyền của Iraq dưới chế độ Tổng thống Saddam Hussein, nguy cơ Iraq có thể phát triển vũ khí hạt nhân hay vũ khí huỷ diệt hàng loạt và rằng "naked aggression will not stand" (sự gây hấn lộ liễu sẽ không có chỗ đứng).

Dù những vụ vi phạm nhân quyền của chính quyền Iraq trước và sau khi xâm chiếm Kuwait được ghi chép rất nhiều, chính phủ Kuwait đã bị ảnh hưởng từ quan điểm của Hoa Kỳ trong một số vấn đề. Ngay sau khi Iraq chiếm Kuwait, tổ chức Các công dân cho một nước Kuwait tự do đã được thành lập ở Mỹ. Nó thuê công ty quan hệ công chúng Hill and Knowlton với giá 11 triệu dollar do chính phủ Kuwait cung cấp. Công ty này bắt đầu tạo ra một chiến dịch miêu tả các binh sĩ Iraq là đã lôi những đứa trẻ ra khỏi lồng ấp trong các bệnh viện Kuwait và để chúng chết dưới sàn. Tuy nhiên, một năm sau luận điệu này đã bị khám phá ra là giả dối. Người đã làm chứng cho việc đó hoá ra là một thành viên của Gia đình hoàng gia Kuwait sống tại Paris khi xảy ra chiến tranh, và vì thế không thể có mặt ở Iraq vào thời điểm xảy ra cái gọi là tội ác. (Xem Nurse Nayirah.)

Nhiều sáng kiến hoà bình đã được đưa ra nhưng không được chấp nhận. Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng những giải pháp duy nhất có thể chấp nhận được để có hoà bình toàn diện với Iraq, là việc rút quân không điều kiện ra khỏi Kuwait. Iraq nhấn mạnh rằng việc rút quân khỏi Kuwait phải được "gắn liền với" sự rút quân đồng thời của quân đội Syria ra khỏi Liban và quân đội Israel ra khỏi Bờ Tây, Dải Gaza, Cao nguyên Golan, và Nam Liban. Maroc và Jordan đã bị thuyết phục bởi đề xuất này, nhưng Syria, Israel và liên minh chống Iraq phản đối rằng không hề có một mối liên hệ nào giữa những việc trên với vấn đề Kuwait. Syria đã tham gia vào liên quân chống lại Saddam nhưng Israel vẫn chính thức giữ thái độ trung lập dù đã có những cuộc tấn công tên lửa vào thường dân Israel. Chính quyền Bush đã thuyết phục Israel đứng ngoài cuộc chiến với những hứa hẹn về việc tăng cường viện trợ, trong khi Tổ chức giải phóng Palestine dưới quyền lãnh đạo của Yasser Arafat hoàn toàn ủng hộ Saddam Hussein, sau này dẫn tới một sự tuyệt giao trong quan hệ giữa Palestine-Kuwait, dẫn tới sự trục xuất nhiều người Palestine ra khỏi Kuwait.
Ngày 12 tháng 1 năm 1991 Hạ viện Hoa Kỳ cho phép sử dụng sức mạnh quân sự để trục xuất quân Iraq ra khỏi Kuwait. Ngay sau đó, các nước đồng minh khác cũng làm điều tương tự.
Đóng góp lực lượng quân sự lớn
Ai Cập: Khoảng 30000 quân gồm 2 sư đoàn thiết giáp và trên 400 xe tăng
Pháp 16000 quân bao gồm các trung đoàn pháo, kỵ binh và trực thăng: 40 máy bay chiến đấu; 9 - 10 chiến hạm.
Ả Rập Saudi: 45000 quân, 500 xe tăng và 300 máy bay chiến đấu. Cam kết đóng góp 16,8 tỷ đô-la và dầu hoả trị giá 1,7 tỷ đô-la.
Anh trên 40000 quân gồm 25000lục quân và hàng trăm xe tăng; trên 800 máy bay chiến đấu, 26 chiến hạm.
Đóng góp lực lượng quân sự có ý nghĩa:
Canada: 2200 nhân viên quân sự, 2 tàu khu trục, 24 máy bay phản lực chiến đấu CF - 18. 1 máy bay tiếp dầu CC-137 và 12 máy bay vận tải C-130.
Đức 71 xe trinh sát phát hiện chất độc hoá học, sinh học cho các lực lượng Mỹ và Anh cùng 200 người điều khiển: 5 tàu quét lôi; 18 máy bay phản lực quân sự ở Thổ. Cam kết đóng góp 6,6 tỷ đô-la.
Hội đồng hợp tác vùng vịnh gồm Kuwait, A-rạp Xê-út, Ba-rên, Qua-ta, các tiểu vương quốc A-rập và Ô-man: khoảng 10000 binh sĩ ở bắc a-rập Xê-út đặt dưới quyền bộ tư lệnh liên hợp Mỹ A-rập Xê-út: phi đội MIRAGEF-IE ở Qua-ta.
Ý: 10 máy bay chiến đấu TORNPO, 3 tàu Pri-gát; 4 tàu quét lôi và 1 tàu tiếp tế.
Kuwait: 11500 binh sĩ, 30-40 xe tăng, 15 máy bay MIRAGE; 34 trực thăng, cam kết đóng góp 16 tỷ đô-la.
Pakistan: 11000 bộ binh đặt dưới quyền chỉ huy của A-rập Xê-út.
Tây Ban Nha: cho Mỹ sử dụng 2 sân bay đảm bảo hậu cần cho các phi đội F-16 của Mỹ ở Thổ; 3 tàu Pri-gát.
Syria: 20000 quân và 300 xe tăng.
Thổ Nhĩ Kỳ: Cho phép khoảng 100 máy bay chiến đấu Mỹ đến căn cứ INCIRLIK, 3 tàu khu trục, 2 tàu ngầm và 1tàu quét lôi.
[sửa] Đóng góp lực lượng quân sự tượng trưng
Afghanistan: 2000 quân Mu-gia-ki-đin.
Argentina: 100 binh sĩ luc quân, 2 chiến hạm, 2 máy bay.
Australia: 1 tàu khu trục, 1 tàu Pri-gát, 1 tàu tiếp tế.
Bangladesh: 2230 binh sĩ cho mục đích phòng thủ.
Bỉ: 6 máy bay C-130, 1 tàu quét lôi, một số tàu đổ bộ và tiếp tế.
Bungari: 1 đơn vị công binh lục quân.
Đan Mạch: 1 chiến hạm hộ tống và một số tàu vận tải.
Hi Lạp: 150 binh sĩ.
Maroc: 1300 binh sĩ.
Hà Lan: Một số tàu Pri-gát, 1 tàu tiếp tế và 1 đơn vị quân y, 40 nhân viên.
New Zealand: 3 máy bay vận tải, một đội bảo đảm 100 người và một đơn vị y tế.
Nigeria: 500 binh sĩ.
Na Uy: 1 xuồng hải quân và 1 số tàu chở quân.
Senegal: 500 binh sĩ.
Xi-era Lê-ôn: Hứa hẹn đóng góp 200 binh sĩ.
Đóng góp phi quân sự:
Séc và Xlô-va-ki-a: 1 đơn vị tẩy độc hoá học.
Nhật Bản: Hàng trăm xe việt dã, máy phát điện, dụng cụ y tế và thuốc men, máy điện toán và thiết bị khác. Cam kết đóng góp 13 tỷ đô-la.
Hung Ga Ri: hứa hẹn đóng góp 1 đơn vị y tế.
Ba Lan: 1đội 17 nhân viên y tế và một bệnh viện nổi.
Bồ Đào Nha: 1 tàu hậu cần.
Xinhgapo: 1 đơn vị 35 nhân viên y tế cho một bệnh viện của lục quân Anh.
Hàn Quốc: 1 đội y tế 154 nhân viên. Cam kết đóng góp 400 triệu đô-la.
XriLanca: cho phép sử dụng sân bay và đi qua hải phận (đối với những tàu tiếp nhiên liệu và máy bay chở hàng không phải là vũ khí).
Thuỵ Điển: 1 bệnh viện dã chiến 350 giường và 525 nhân viên.
Một ngày sau thời hạn chót do Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc đặt ra, liên minh tung ra một cuộc tấn công không quân ồ ạt với mật danh "Chiến dịch bão táp sa mạc" với hơn 1.000 lần xuất kích một ngày, bắt đầu từ sáng sớm ngày 17 tháng 1 năm 1991. Năm tiếng đồng hồ sau những cuộc tấn công đầu tiên, đài phát thanh quốc gia Baghdad phát đi một giọng nói được xác định là của Saddam Hussein tuyên bố rằng "Cuộc chiến vĩ đại, cuộc chiến của mọi cuộc chiến đã bắt đầu. Bình minh thắng lợi đã rất gần khi cuộc thử thách cuối cùng đã đến."
Chiến tranh vùng vịnh  250px-USAF_F-16A_F-15C_F-15E_Desert_Storm_picChiến tranh vùng vịnh  Bmp2
Những vũ khí được sử dụng trong chiến dịch này gồm các vũ khí dẫn đường chính xác (hay "bom thông minh"), bom bầy, BLU-82 "daisy cutters" và tên lửa hành trình. Iraq trả lời bằng cách phóng 8 tên lửa Scud vào Israel ngày hôm sau. Mục tiêu ưu tiên hàng đầu của liên minh là phá hủy các cơ sở không quân và phòng không của Iraq. Nhiệm vụ này được nhanh chóng hoàn thành và trong suốt thời gian xảy ra cuộc chiến, không quân liên minh hầu như không gặp phải trở ngại nào khi hoạt động. Dù khả năng phòng không của Iraq tốt hơn so với dự đoán, liên minh chỉ thiệt hại một máy bay trong ngày mở màn chiến tranh. Máy bay tàng hình đã được sử dụng nhiều trong giai đoạn đầu tiên này nhằm tránh các hệ thống tên lửa đất đối không SAM dày đặc của Iraq; khi đã phá hủy xong những hệ thống đó, các kiểu máy bay khác có thể được đem ra sử dụng với độ an toàn cao hơn. Đa số các phi vụ tấn công xuất phát từ Ả Rập Saudi và sáu nhóm tàu sân bay của liên minh ở Vịnh Péc xích.
Chiến tranh vùng vịnh  180px-A-10A_Thunderbolt_II_Desert_Storm
Các mục tiêu tiếp theo của liên quân là các sở chỉ huy và thông tin. Những nhà lập kế hoạch bên phía liên quân hy vọng sự kháng cự của Iraq sẽ nhanh chóng sụp đổ nếu hệ thống chỉ huy và liên lạc của họ bị phá huỷ. Trong tuần đầu tiên của chiến dịch không quân, quân Iraq ít khi xuất kích và cũng không gây thiệt hại gì đáng kể, 38 máy bay MiG của Iraq đã bị không quân liên quân bắn hạ. Ngay sau đó, không quân Iraq bắt đầu chạy trốn sang Iran, với khoảng 115 tới 140 chiếc[13]. Cuộc bỏ chạy ồ ạt của không quân Iraq sang Iran khiến các lực lượng liên quân rất kinh ngạc và không kịp phản ứng gì trước khi các máy bay Iraq đã "an toàn" tại các sân bay Iran. Iran không bao giờ trả lại các máy bay đó cho Iraq và chỉ cho phép các phi công trở về nước vào năm sau. Ngày 23 tháng 1, Iraq bắt đầu đổ gần 1 triệu tấn dầu thô xuống vịnh, gây ra vụ tràn dầu lớn nhất trong lịch sử.

Giai đoạn thứ ba và là lớn nhất của chiến dịch không quân nhắm tới các mục tiêu quân sự trên khắp Iraq và Kuwait: các bệ phóng tên lửa Scud, các địa điểm vũ khí hủy diệt hàng loạt, những cơ sở nghiên cứu vũ khí và các lực lượng hải quân. Khoảng một phần ba không lực liên quân được dành riêng để tấn công các bệ phóng tên lửa Scud, nằm trên các xe tải và do đó rất khó tìm kiếm để tiêu diệt. Ngoài ra, họ cũng nhắm vào các mục tiêu có thể sử dụng được cho cả mục đích dân sự và quân sự: các nhà máy điện, các lò phản ứng hạt nhân, các thiết bị thông tin liên lạc, các cảng biển, các nhà máy lọc và phân phối xăng dầu, các đường sắt và các cây cầu. Các nhà máy điện trên toàn quốc bị phá huỷ. Tới cuối cuộc chiến, việc sản xuất điện chỉ còn đạt mức 4% so với trước chiến tranh. Bom đã phá hủy tất cả các đập chính, đa số những trạm bơm chính và nhiều nhà máy xử lý nước thải. Một số đội thuộc các lực lượng đặc biệt của Mỹ và Anh được đưa thâm nhập vào phía tây Iraq để tìm kiếm và phá hủy các tên lửa Scud. Tuy nhiên, vì thiếu những điều kiện địa lý thích hợp để ẩn náu khiến các hoạt động của họ gặp nhiều khó khăn và nhiều người đã bị giết hoặc bị bắt giữ.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/a/aa/BdeAtk.jpg/230px-BdeAtk.jpg
Trong đa số các trường hợp, liên quân tránh gây thiệt hại tới những cơ sở dân sự thuần tuý. Tuy nhiên, ngày 13 tháng 2 năm 1991, hai quả bom thông minh điều khiển bằng tia laser đã phá hủy lô cốt Amiriyah mà người Iraq cho là nơi tránh bom của thường dân. Các quan chức Mỹ cho rằng lô cốt đó là một trung tâm thông tin quân đội, nhưng các nhà báo phương tây đã không tìm được bằng chứng về việc đó. Trong một báo cáo với nhan đề "Bộ máy nói dối: Thảm kịch của sự lừa đảo", Nhà trắng đã tuyên bố rằng các nguồn tin tình báo của họ cho thấy lô cốt này đang được sử dụng cho mục đích chỉ huy quân sự[14]. Trong cuốn sách của mình, Kẻ chế tạo bom của Saddam, cựu giám đốc chương trình vũ khí hạt nhân của Iraq, người đã đào thoát sang phương tây, ủng hộ giả thuyết rằng lô cốt này được sử dụng cho cả hai mục đích.

Chúng tôi đã tìm người trú ẩn nhiều lần tại lô cốt.... Nhưng nó luôn bị bịt kín.... Lô cốt có vô tuyến, vòi nước uống, máy phát điện riêng, và trông đủ vững chắc để chống lại các loại vũ khí thông thường. Nhưng tôi đã thôi tìm cách vào trong, bởi một đêm tôi đã nhận ra vài chiếc limousine đen chạy ra chạy vào qua cánh cổng ngầm ở phía sau. Tôi hỏi những người ở xung quanh và được trả lời rằng đó là một trung tâm chỉ huy. Sau khi xem xét nó kỹ càng hơn, tôi đã cho rằng có thể nó là căn cứ điều hành riêng của Saddam.

Iraq đã tung ra các cuộc tấn công tên lửa vào các căn cứ của liên quân tại Ả Rập Saudi và Israel, với hy vọng buộc Israel tham gia cuộc chiến và các nước Ả Rập khác rút lui khỏi nó. Chiến thuật này tỏ ra không hiệu quả. Israel không tham gia vào liên quân, và tất cả các nước Ả Rập ở lại với liên quân trừ Jordan, về mặt chính thức vẫn giữ thái độ trung lập. Các tên lửa Scud nói chung là gây ra rất ít thiệt hại, dù nó cũng đã một lần chứng minh được sức mạnh vào ngày 25 tháng 2 với 28 người Mỹ đã thiệt mạng khi một tên lửa Scud phá hủy doanh trại của họ tại Dhahran. Những tên lửa Scud nhắm vào Israel không có hiệu quả bởi vì khi tăng tầm bắn, tên lửa Scud bị giảm đi rất nhiều về độ chính xác và khả năng sát thương. Ngày 29 tháng 1, Iraq dùng xe tăng, bộ binh tấn công và chiếm thành phố Khafji của Ả Rập Saudi lúc ấy dang được bảo vệ bởi một số lính thủy đánh bộ trang bị vũ khí hạng nhẹ. Tuy nhiên, Trận Khafji đã kết thúc khi quân Iraq phải lùi bước trước các lực lượng Ả Rập Saudi được các lính thủy đánh bộ và không quân Mỹ yểm trợ hai ngày sau đó. Ngay sau khi Iraq xâm chiếm Kuwait, Khafji đã trở thành một thành phố có vị trí chiến lược. Sự chậm chạp của Iraq khi đưa các sư đoàn thiết giáp vào Khafji và sau đó dùng nơi này làm bàn đạp để tiến vào phần phía đông được bảo vệ kém cỏi của Ả Rập Saudi là một sai lầm lớn về chiến lược. Nếu làm được như vậy, Iraq không chỉ kiểm soát được phần lớn những nguồn cung cấp dầu ở Trung Đông mà sau đó còn đe dọa được lực lượng quân Mỹ triển khai dọc theo các đường chiến tuyến.

Hiệu quả của chiến dịch không quân là đã làm thiệt hại mười phần trăm toàn bộ lực lượng quân sự Iraq được triển khai trên sa mạc. Chiến dịch này cũng ngăn chặn một cách có hiệu quả việc tiếp tế của Iraq cho những đơn vị đồn trú chiến đấu phía trước, và khiến số quân đông đảo (450.000) người không thể tập trung lại được và là nhân tố căn bản dẫn đến thắng lợi.

Chiến dịch không quân có một tác động rõ nét trên các mưu mẹo mà các bên xung đột về sau này sử dụng. Họ không tập trung quân đội để đối mặt với quân Mỹ mà phân tán các sư đoàn ra, ví dụ Các lực lượng Serbia tại Kosovo. Các bên tham chiến cũng giảm bớt khoảng cách tiếp tế hậu cần và diện tích vùng bảo vệ. Điều này đã được thấy trong Chiến tranh Afghanistan khi quân Taliban rút lui khỏi những vùng đất rộng lớn về giữ những cứ điểm mạnh của họ. Điều này giúp tăng cường tập trung quân đội và giảm bớt khoảng cách tiếp tế. Chiến thuật này cũng được sử dụng trong cuộc tấn công của Iraq khi các lực lượng Iraq rút lui khỏi miền bắc Kurdistan thuộc Iraq vào trong các thành phố.
Ngày 22 tháng 2 năm 1991, Iraq đồng ý với một thỏa thuận ngừng bắn do Liên Xô đề xuất. Thỏa thuận kêu gọi Iraq rút quân khỏi những vị trí mà họ đã chiếm trong ba tuần sau khi ngừng bắn hoàn toàn, và đề xuất việc theo dõi ngừng bắn và rút quân sẽ do Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc giám sát. Hoa Kỳ phản đối đề nghị này nhưng nói rằng việc rút quân của Iraq sẽ không bị tấn công, và trao cho Iraq hai mươi bốn giờ để rút các lực lượng quân đội.
Ngày 24 tháng 2, các lực lượng do Mỹ cầm đầu bắt đầu "Chiến dịch cát sa mạc" (Desert Sand), phần trên mặt đất của chiến dịch của họ. Ngay sau đó, lính thủy đánh bộ Mỹ và các đồng minh Ả Rập của họ thâm nhập sâu vào Kuwait, thu thập hàng nghìn quân Iraq đang tan rã, đã suy yếu và mất tinh thần sau chiến dịch ném bom ồ ạt của liên quân. Vài ngày sau chiến dịch, Thành phố Kuwait được giải phóng bởi các đơn vị thuộc quân đội Kuwait.
Cùng lúc ấy, Quân đoàn VII Hoa Kỳ tung ra cuộc tấn công ồ ạt bằng xe bọc thép vào Iraq, từ phía tây Kuwait, khiến quân Iraq hoàn toàn bất ngờ. Sườn trái của đội quân này được Sư đoàn bọc thép hạng nhẹ số 6 của Pháp bảo vệ (gồm cả các đơn vị của Tiểu đoàn Lê dương Pháp), và sườn phải bởi Sư đoàn thiết giáp số 1 Hoàng gia Anh. Khi liên quân đã thâm nhập sâu vào lãnh thổ Iraq, họ quay sang phía đông, tung ra những cuộc tấn công vào lực lượng Vệ binh cộng hoà Iraq. Những trận chiến xe tăng nổ ra khi Vệ binh cộng hòa tìm cách rút lui, khiến cho liên quân chiến thắng mà chỉ bị thương vong ở mức thấp nhất.
Tướng Colin Powell tóm tắt tình hình tấn công trên bộ cho Tổng thống George H. W. Bush và các cố vấnKhi Iraq đã quyết định rằng họ sẽ không tiến về phía các giếng dầu phía đông của Ả Rập Saudit, thì không có lí do gì để các lực lượng Iraq triển khai xa hơn nữa về phía nam Thành phố Kuwait với số lượng lớn. Quyết định triển khai một lực lượng khá đông đảo quân dọc theo biên giới Kuwait càng làm tăng khoảng cách tiếp tế của quân Iraq một cách không cần thiết. Thứ hai, khi đã quyết định triển khai quân dọc biên giới, việc mở rộng nó ra càng khiến nguy cơ bị tấn công ồ ạt vào sườn. Quả thực người Iraq không có đủ lực lượng để giữ một mặt trận đủ dài dọc theo biên giới Kuwait và tây nam Iraq. Vì thế việc cấp thiết là việc triển khai quân và thu hẹp mặt trận chỉ ở phía nam Thành phố Kuwait và mở rộng tới vùng ngoại ô Basra. Iraq chỉ có một lợi thế tuyệt đối trước lực lượng liên quân ở số lượng và chất lượng pháo binh. Đa số các đơn vị pháp binh Iraq được kéo bằng xe và vì thế không thích ứng tốt với việc phát triển mở rộng. Điều này cũng có nghĩa là Iraq muốn làm chậm sự di chuyển của quân địch và giao chiến dọc theo các giới tuyến không dễ dàng bị chọc thủng hay đánh ngang sườn.
Chiến tranh vùng vịnh  200px-Operation_Desert_Storm
Về Đầu Trang Go down

Chiến tranh vùng vịnh

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
♥๑۩۞۩๑°ღ A6 Family ღ°๑۩۞۩๑♥ :: ๑۩۞۩๑ Góc Học Tập ๑۩۞۩๑ :: Kiến Thức Online :: Lĩnh Vực Khác-
Chuyển đến:
Free forum | Âm nhạc | cổ điển | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất